GIA PHẢ CÓ 974 THÀNH VIÊN

 TỘC VĂN LÀNG VÂN THÊ-THỦY THANH-HƯƠNG THỦY

Photo
 Nhà Thờ Tộc Văn Làng Vân Thê
 
A.-SỰ THÀNH LẬP LÀNG VÂN THÊ
 
               Đời vua Lê Thánh Tông năm Hồng Đức thứ I (1470) vẽ lại bản đồ chi tiết từng làng xã, vùng Bố Chánh, Thuận Hóa, Thừa Tuyên có 2 phủ, Phủ Triệu Phong có 2 Huyện, trong đó Huyện Tư Vinh (Vang) có 6 tổng, 52 xã phường ấp. Trong Ô Châu Cận Lục do Dương Văn An viết vào thời kỳ  nhà Mạc, đã chép chi tiết bản đồ làng xã do Hồng Đức vẽ năm 1470 thì làng Vân Thê thuộc Tổng Đường Pha, huyện Tư Vinh có 52 xã phường. Đây cũng là lần đầu tiên làng Vân Thê chính thức có tên trên bản đồ Việt Nam.
            Từ ngày đầu sơ khai, làng Vân Thê thuộc Tổng Đường Pha, huyện Tư Vinh. Năm Mậu Ngọ Lê Chính Trị thứ I (1558) Chúa Nguyễn Hoàng đổi huyện Tư Vinh (Vang) thành Huyện Phú Vang, phủ Triệu Phong thành phủ Quảng Đức. Năm Minh Mạng thứ III (1822) đổi Phủ Quảng Đức thành Phủ Thừa Thiên. Năm Minh Mạng thứ XVI (1836) phân chia lại bản đồ lập thêm 3 huyện mới là Hương Trà-Hương Thủy-Phú Lộc. Như vậy Phủ Thừa Thiên có 6 huyện, trong đó huyện Hương Thủy có 5 Tổng, 58 Xã-Phường. Làng Vân Thê thuộc Tổng Đường Pha-Huyện Hương Thủy-Phủ Thừa Thiên. (Danh xưng này có vào thời vua Minh Mạng thứ 16).
                 Làng được lập do công đức của các Ngài Thỉ Tổ khai canh mà dưới triều Gia Long năm thứ III (1805) đã có sắc phong công nhận * Họ Chính tôn có công  khai canh lập làng, lập Họ được gọi là: BÁT GIA KHAI CANH ghi rõ thần hiệu, kim vị, miệu duệ thứ tự phân minh như sau: CHẾ-NGUYỄN-PHAN-ĐỖ-TRẦN-HOÀNG-VĂN-LÊ, thờ tại đình làng. Trong đó Họ Văn ta là Thỉ Tổ Đệ Thất Khai Canh.
Do có công lao to lớn trong sự nghiệp giúp nước nuôi dân, mỡ mang bờ cõi, lập làng, lập Họ nên các Vua triều Nguyễn sắc phong cho công đức tưng Ngài của các Họ với các đạo sắc như sau:
本土神皇諱文桀戶國庇民憲有公德元贈保安正直又天東隅翊保中興靈扶加贈淨侯忠戥神
-         BỔN THỔ THẦN HOÀNG  HÚY VĂN KIỆT hộ quốc tỷ dân hiến hữu công đức nguyên tặng “ BẢO AN CHÁNH TRỰC HỰU THIÊN ĐÔNG NGUNG DỰC BẢO TRUNG HƯNG LINH PHÙ GIA TẶNG TỊNH HẦU TRUNG ĐẲNG THẦN”
本族開耕始祖戶國庇民憲有公德元贈翊保中興靈扶加贈諯肅尊神
-         BỔN TỘC KHAI CANH THỈ TỔ hộ quốc tỷ dân hiến hữu công đức nguyên tặng DỰC BẢO TRUNG HƯNG LINH PHÙ GIA TẶNG ĐOAN TÚC TÔN THẦN.
(Theo VÂN THÊ HƯƠNG SỬ  kỷ niệm 525 năm làng Vân Thê hình thành và phát triển 1995)    
 
B.-SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
               I.-Phả ký
文族廷派世譜序
且夫木有其本,水其有源,本固而枝始茂鳥可昧昧,而罔知源遠而派,攸分詎忍昏昏而弗察倘置,若罔聞曷啼豪泉剝果而徒,生長於天覆地,載中也問以支從何肇渺不知其所.由派由孰分概弗明其所綮.自僅知眼前之昭穆罔曉前代之源流雖耳目,徒存知能不昧,而為萬物之靈,直輿草木無異可不羞,哉所以古聖王立有成法教以相承修其譜牒表其世系固欲期世世人民網常無例,置之憂祖考免遺亡之患也,為試觀墓必存其志惟憂世遠而難,稽石以樹其碑祇冀代洒而可考.況乎親親一脉之流露而忍棄之如遺母乃淪於禽獸,而罔覺乎要當遵聖賢之成法溯源本之由來修譜牒以長存居今自可稽古明世代,而特誌起後,可以承先始基勿壞非惟名字無索亂之憂,有本可稽方免祖考貽淪亡之歎,子子孫孫於焉而弗替繩繩繼繼猶是而振興豈不美哉此事所關非輕幸,勿置若罔聞而自棄也可.
甲寅孟春下澣-嗣孫光祿寺少卿領學部郎中文廷治拜序.
            Dịch âm
Văn Tộc Đình Phái Thế Phổ Tự
Thả phù: Mộc hữu kỳ bổn thủy hữu kỳ nguyên Bổn cố nhi chi, thỉ mậu điểu khả muội muội, nhi võng tri nguyên viễn nhi phái, du phân cự nhẫn hôn hôn nhi phất sát thượng trí, nhược vọng văn cát đề hào truyền lộc quả nhi đồ, sanh trưởng ư thiên phúc địa, tái trung dã vấn dĩ chi tòng hà triệu miểu bất tri kỳ sở. Do phái do thục phân khái phất minh kỳ khể. Tự cẩn tri nhãn tiền chi, chiếu mục võng hiểu tiền đợi chi nguyên lưu tuy nhĩ mục đồ tồn tri năng bất muội, nhi vi vạn vật chi linh, trật dư thảo mộc vô dị khả bất tu, tai sở dĩ cổ thánh vương lập hữu thành pháp giáo dĩ tương thừa tu kỳ phổ điệp, biểu kỳ thế hệ cố dục kỳ thế thế, nhân dân võng thường vô lệ, trí chi ưu Tổ Khảo miễn di võng chi hoạn dã, vi thí quan mô tất tồn kỳ chí, duy ưu thế viễn nhi nan, khể thạch dĩ thụ kỳ bi chỉ ký đại sát, nhi khả khảo. Huống hồ thân thân nhất mạch chi lưu lộ nhi nhẫn khí chi như di mẫu luân ư cầm thú, nhi võng giác hồ yếu đương tuân thánh hiền chi thành pháp, tố nguyên bổn chi do lai tu phổ điệp dĩ trường tồn, cư kim tự khả khể cổ minh thế đợi, nhi đặc chí khởi hậu, khả dĩ thừa tiên thỉ cơ vật hoại phi duy danh tự vô sách loạn chi ưu. Hữu bổn khả khể phương miễn Tổ Khảo di luân vong chi thán tử tử tôn tôn ư yên nhi phất thế tập tập kê kê do thị nhi chấn hưng khởi bất mỹ tai, thử sự sở quan phi khinh hạnh, vật trí nhược võng văn như tự khí dã khả.
Giáp Dần mạnh Xuân hạ cán, Tự tôn Quang Lộc tự Thiếu Khanh lãnh Học Bộ Lang Trung Văn Đình Trị. Bái tự.
 
           II.-Sự nghiệp
文姓廷派譜牒記
溯夫我文姓為鴈門郡自古以來恭惟
始祖開拓于雲梯社,歷幾百年餘一脉肇培支,派蕃衍以至今日.惟攷其世系自始祖以前世遠失傳固無可考.
自始祖以後,前人纂修族普目錄列為十二派:第一文派,第二爪派,第三廷派, 第四克派, 第五拔派, 第六維派, 第七千派, 第八進派, 第九仲派, 第十先派, 第十一登派, 第十二曰派.
廷派乃第三派也而今為先焉,第一第二兩派闕也,此辰族譜列書每派自上考高高高高祖至每派顯考,此辰書顯考今稱為曾祖而址其中每世之下列書姓名如世系未得明晰肆今謹從舊普編輯,莫敢差錯以存名號今而後請于每派繼次續編以延世紀間.有或因乏嗣第一, 第二, 第七, 第十, 第十一, 等派皆闕,
或失編記致今無從稽續仍闕如也.惟廷派派中三枝,賴有我顯祖流光公究編遺草自
廷茶公以後世次詳明仍究之遺編廷派第壹枝諸忌日於五月十二日忌開始祖考文貴公即翁茶則以廷茶公為廷派始祖第查之大族祠堂目錄編本則廷茶公之上尚有五世:
-上考高高高高祖文廷請第壹世祖也.
-上考高高高祖考文廷石 是為第貳世.
-上考高高祖文廷議 是為第三世.
-高高祖文廷詩是為第四世.
-曾高祖文廷語是為第四世.
-廷茶公為第六世也.茲謹依族祠目錄編本請尊第壹派.
開始文宗肇祖鴈門郡,上考高高高高祖文彰貴公諡昭德府君(此依大族祠堂目錄所書神位題:開始文宗肇祖文彰貴公昭德府君神位.此大祠堂本族十二派同奉祀)
為第一一世其第一世謹以派中上考高高高高祖鴈門郡文廷請為廷派始祖繼之又遰世繼之至我孫方為第十四世此後子繼字續修庶使世字不失以衍本支于弗替也,可存圖本列為一冊而世系只書男派至如女派已于譜牒備載致圖本省之辰.
維新八年歲次甲寅正月下浣.
嗣孫:光祿寺少卿領學部郎中蒙四賞金磬佩星元理.文廷治謹識
Dịch nghĩa:
Phả ký Phái Văn Đình của Họ Văn làng Vân Thê.

          Trong Nhạn Môn Quận họ Văn chúng ta, từ xưa cho đến nay, kể từ Ngài Thủy Tổ khai thác làng Vân Thê đã trải dài mấy trăm năm. Từ khi khởi đầu một mạch bồi đắp nên Chi, Phái lần hồi đông đúc cho đến ngày nay. Nhưng khi khảo cứu các thế hệ trước Ngài Thủy Tổ xa xưa thì nay đã thất truyền, không thể căn cứ vào đâu mà biết được. Tự Ngài Thủy Tổ về sau, các bậc tiền nhân đã chịu khó sắp đặt ghi chép mục lục tộc phổ và sắp ra làm mười hai Phái là:
1.- Đệ nhất Phái VĂN                                         2.- Đệ nhị Phái VĂN TẢO
3.- Đệ tam Phái VĂN ĐÌNH                               4.- Đệ tứ Phái VĂN KHẮC
5.- Đệ ngũ Phái VĂN BẠT                                 6.- Đệ lục Phái VĂN DUY
7.- Đệ thất Phái VĂN THIÊN                             8.- Đệ bát Phái VĂN TẤN (TIẾN)
9.- Đệ cửu Phái VĂN TRỌNG                           10.- Đệ thập Phái VĂN TIÊN
11.- Đệ thập nhất Phái VĂN ĐĂNG                  12.- Đệ thập nhị Phái VĂN VIẾT.
         Phái VĂN ĐÌNH là Phái thứ ba mà nay lên làm Phái thứ Nhất, vì hai Phái đệ nhất VĂN và đệ nhị VĂN TẢO đã thất truyền. Nay theo các sách trong Tộc phổ thì mỗi phái đều có ghi từ Ngài Thượng Khảo CAO CAO CAO CAO Tổ đến Ngài Hiển Khảo của Phái. Nay xét theo các sách Tộc phổ trên thì từ Ngài Hiển Khảo đến Ngài Tằng Tổ, mỗi thế không ghi chép rõ ràng đầy đũ danh tánh. Nay cứ xin trích cẩn theo Tộc phổ cũ đã biên tập chứ không dám làm sai. Mong để lại danh hiệu cho đời sau mỗi Phái tiếp tục biên thêm. Hoặc có người không biết vì sao có sự thiếu nối tiếp của các Phái: đệ Nhất, đệ Nhị, đệ Thất, đệ Thập, đệ Thập Nhất (là những Phái đã khuyết)
Duy trong Phái VĂN ĐÌNH có ba Chi, thì Ngài Hiển Tổ Khảo chúng ta có thấy được ghi lại rõ ràng từ Ngài ĐÌNH TRÀ (NGÒ) cho đến các đời sau.
Nay khảo cứu những điều biên chép của Phái VĂN ĐÌNH về các ngày kỵ, như ngày kỵ mười hai tháng năm (12/5) của Ngài Khai Thủy Tổ Khảo Văn Quý Công tức Ông TRÀ. Vậy thì Ngài Đình Trà là Thủy Tổ của Phái VĂN ĐÌNH. Nay cứu trong mục lục của Đại Tộc Từ Đường, thì thấy biên các bậc trên của Ngài còn có năm đời:
1.- Bậc Thượng Khảo Cao Cao Cao Cao Tổ là VĂN ĐÌNH THỈNH, Tổ Đệ nhất.
2.- Bậc Thượng Khảo Cao Cao Cao Tổ Khảo là VĂN ĐÌNH THẠCH, Tổ thế thứ nhì.
3.- Bậc Thượng Khảo Cao Cao Tổ là VĂN ĐÌNH NGHỊ, Tổ thế thứ ba.
4.- Bậc Cao Cao Tổ là VĂN ĐÌNH THI, Tổ thế thứ tư.
5.- Bậc Tằng Cao Tổ là VĂN ĐÌNH NGỮ, Tổ thế thứ năm.
             Ngài VĂN ĐÌNH TRÀ là Tổ của thế thứ sáu. Nay kính cẩn y theo mục lục của Đại Tộc đã ghi mà xin tôn Ngài làm Đệ Nhất Phái.
 
           Ngài Khai Thủy mở đầu dòng dõi Họ VĂN (Vân Thê) là Bậc Thượng Khảo Cao Cao Cao Cao Tổ  VĂN CHƯƠNG, có tên thụy là CHIÊU ĐỨC PHỦ QUÂN.(Đó là theo thần vị đặt thờ trong nhà thờ Họ nguyên văn như sau: KHAI THỦY VĂN TÔNG TRIỆU TỔ VĂN CHƯƠNG QUÝ CÔNG THỤY CHIÊU ĐỨC PHỦ QUÂN THẦN VỊ. Trong đại từ đường của Họ ta có đũ mười hai Phái được thờ ở trên).
        Vậy làm Bậc Đệ Nhất Nhất thế là Ngài VĂN CHƯƠNG (HAI CHỮ NHẤT)
        Làm Đệ nhất thế Thượng Khảo Cao Cao Cao Cao Tổ là VĂN ĐÌNH THỈNH.
        Kể từ Ngài Đệ nhất thế đến nay(1912) tính ra là đến mười bốn thế. Nay xin biên chép và vẽ lược đồ để hàng con cháu về sau theo sách này mà ghi con cháu nam, nữ.
        Năm DUY TÂN thứ tám, tuế thứ Giáp Dần (1912) hạ tuần tháng giêng. Tự Tôn Quang Lộc tự Thiếu Khanh Lãnh Học Bộ Lang Trung, Mông Tứ Thưởng Kim Khánh VĂN ĐÌNH -VĂN ĐÌNH TRỊ nguyên lý cẩn thức.
 
        Cho đến nay sự nghiệp Tổ Tiên Tộc Văn làng Vân Thê đễ lại đã trãi qua từ 19 đến 20 đời, gần 600 năm trên mãnh đất đã đi qua bao nhiêu gian nan và thử thách. Từ thời kỳ đầu khi đặt chân lên vùng đất xứ Đường Pha còn là sơ khai, phải chung sống với dân bản địa, các cuộc chiến tranh hay vật lộn với thiên tai khắc nghiệt của vùng đất miền Trung. Họ Văn chúng ta đã từng bước đi lên và khẳng định mình, sống thân thiện, nhân ái với mọi người kể cả người bản địa, bằng chứng là họ Văn Vân Thê đã kết thông gia với người bản xứ. (có 4 người Họ Chế làm dâu trong Họ ta)
        Với sự nghiệp gần 600 năm, Họ Văn Vân Thê cho đến hôm nay theo thống kê chưa đầy đũ có 212 hộ với số nhân khẩu là 677, đang sinh sống trong và ngoài tỉnh và nước ngoài.
       Từ các bậc Tiên Tổ cho đến các hậu duệ về sau, Họ Văn Vân Thê cùng với các Họ tộc khác, đã có công trong công cuộc mở nước và dựng nước của dân tộc, mà điển hình là các sắc phong hay chức tước qua các thời đại như: (xin xem phần danh nhân Họ Văn TT-Huế qua các thời đại)
        Học tập truyền thống tốt đẹp của các bậc tiền bối. Ngày nay con cháu trong Họ của chúng ta đã có:
-Trình độ học vấn như sau:
-Trình độ  THPT: 50 % dân số trong họ.trên 300 người
-Trình độ Đại Học-Cao Đẳng: 0,5%  dân số trong họ.(34 người)
-Trình độ trên Đại Học: 0,03% dân số trong họ. Có 04 người trong đó có 01 Giáo sư..
Và không một cháu nào trong độ tuổi cắp sách đến trường bị thất học.
      Hiện nay con cháu trong Họ Văn Vân Thê đã tham gia vào các lĩnh vực như: Chính quyền, Công sở, Kinh doanh, v.v….và giử nhiều chức vụ cao và thành đạt trong các lĩnh vực. Có 01 Đại biểu HĐND cấp Tỉnh và 02 Dại biểu HĐND cấp xã.

GHI CHÚ
* Gia phả nầy được cập nhật từ Phả Ký Tộc Văn TT-Huế.
* Các thế thứ của các Phái so với tổng thể thế thứ của Họ Văn làng Vân Thê không đồng đời. Do các Phái như Văn Bạc, Văn Tấn, Văn Trọng, Văn Viết........đã không ghi được các Ngài từ Thủy Tổ đến đời thứ  VI.     .
* Gia phả nầy chưa được hoàn chỉnh còn phải điều chỉnh thêm. 
 * Tổng phổ Tộc Văn làng Vân Thê có từ 19-20 đệ thế. chúng tôi chỉ mới trích sao từ 13-14 đời
Người biên soạn: Văn Viết Thiện

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây